Diễn đàn Luật Vinh
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn đàn Luật VinhĐăng Nhập

Diễn đàn Luật Vinh, nơi giao lưu chia sẻ kinh nghiệm học tập, việc làm, đời sống sinh viên khoa Luật - Đại học Vinh


descriptionTổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I EmptyTổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I

more_horiz

Đề cương ôn tập cuối kỳhọc phầnNhững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin I - Đại học Vinh


Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655211

Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655228
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655226
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655227
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655221
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655223
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655219
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655222
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655220
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655218
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655217
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655216
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655215
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655213
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655214
Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I 14655212

Tải về toàn tập tại đây

descriptionTổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I EmptyRe: Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I

more_horiz
Tổng hợp đề cương ôn tập môn học Chủ nghĩa Mác - Lênin I[/h2]

Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I Scxeep

Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa đó.
                           
Các quan niệm về vật chất của các nhà duy vật trước Mác hoặc đồng nhất vật chất với các dạng vật chất cụ thể (triết học duy vật cổ đại) hoặc đồng nhất vật chất với các dạng vật chất cụ thể và tính chất của chúng (triết học duy vật thế kỷ XVII-XVIII).
                           
Các phát minh của của vật lý học cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã bác bỏ quan niệm đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính của vật chất của các nhà triết học duy vật cổ đại và cận đại. Tia X- là sóng điện từ có bước sóng rất ngắn; sau khi bức xạ ra hạt Anpha, nguyên tố Urani chuyển thành nguyên tố khác; điện tử là một trong những thành phần tạo nên nguyên tử; khối lượng của các điện tử tăng lên khi vận tốc của điện tử tăng. Từ góc độ triết học, chủ nghĩa duy tâm đã giải thích sai lệch các phát minh trên; thậm chí các nhà khoa học cho rằng vật chất (được họ đồng nhất với nguyên tử và khối lượng) tiêu tan mất do vậy chủ nghĩa duy vật đã mất cơ sở để tồn tại. Điều này đòi hỏi khắc phục “cuộc khủng hoảng” phương pháp luận của vật lý; tạo đà cho phát triển tiếp theo của nhận thức duy vật biện chứng về vật chất, về những tính chất cơ bản của nó.
                           
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Trong định nghĩa này, Lênin đã chỉ rõ:
                           
“Vật chất là một phạm trù triết học”. Đó là một phạm trù rộng và khái quát nhất, ko thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống hằng ngày.
                           
Thuộc tính cơ bản của vật chất là “thực tại khách quan”, “tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác”. Đó cũng chính là tiêu chuẩn để để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì ko phải là vật chất.
                           
“Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”, “tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác”. Điều đó khẳng định “thực tại khách quan” (vật chất) là cái có trước (tính thứ nhất), còn “cảm giác” (ý thức) là cái có sau (tính thứ hai). Vật chất tồn tại ko lệ thuộc vào ý thức.
                           
“Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”. Điều đó nói lên “thực tại khách quan” (vật chất) được biểu hiện thông qua các dạng cụ thể, bằng “cảm giác” (ý thức) con người có thể nhận thức được. Và “thực tại khách quan” (vật chất) chính là nguồn gốc, nội dung khách quan của “cảm giác” (ý thức).

                           
Định nghĩa của Lênin về vật chất đã giải quyết được cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học theo lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thế giới quan duy vật biện chứng xác định được vật chất trong lĩnh vực xã hội; đó là tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị v.v và tạo cơ sở lý luận cho các nhà khoa học tự nhiên, đặc biệt là các nhà vật lý vững tâm nghiên cứu thế giới vật chất.

Định nghĩa vật chất của Lênin có ý nghĩa:
                           
1. Chống lại tất cả các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về phạm trù vật chất: Khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cổ và cận đại về vật chất). Khẳng định ý thức con người có khả năng nhận thức được thế giới vật chất (chống lại thuyết không thể biết và hoài nghi luận).
                           
2. Đấu tranh khắc phục triệt để tính chất trực quan, siêu hình, máy móc và những biến tướng của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học tư sản hiện đại. Do đó, định nghĩa này cũng đã giải quyết được sự khủng hoảng trong quan điểm về vật chất của các nhà triết học và khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
                           
3. Khẳng địng thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, luôn vận động và phát triển ko ngừng, nên đã có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra những kết cấu mới, thuộc tính mới và những quy luật vận động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.

                           
Câu 2: Trình bày mối liên hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ đó.

                           
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
                           
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Ý thức của con người là sản phẩm của quá trình tự nhiên (bộ não người + sự phản ánh) và xã hội (lao động + ngôn ngữ). Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, có chọn lọc- tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
                           
Vai trò quy định của vật chất đối với ý thức:

                           
Vật chất là cái thứ nhất, ý thức là cái thứ hai, nghĩa là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; Vật chất quy định ý thức cả về nội dung phản ánh lẫn hình thức biểu hiện. Điều này thể hiện ở:
                           
+ Vật chất sinh ra ý thức (ý thức là sản phẩm của não người; ý thức có thuộc tính phản ánh của vật chất)
                           
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức (ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất; nội dung của ý thức (kể cả tình cảm, ý chí v.v) đều xuất phát từ vật chất; sự sáng tạo của ý thức đòi hỏi những tiền đề vật chất và tuân theo các quy luật của vật chất).
                           
Tồn tại xã hội (một hình thức vật chất đặc biệt trong lĩnh vực xã hội) quy định ý thức xã hội (một hình thức ý thức đặc biệt trong lĩnh vực xã hội).
                           
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người trong dạng hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan; hình thức biểu hiện của ý thức là ngôn ngữ (một dạng cụ thể của vật chất).
                           
Vai trò tác động ngược trở lại của ý thức đối với vật chất:
                           
Sự tác động của ý thức đối với vật chất có thể theo hướng tích cực (khai thác, phát huy, thúc đẩy được sức mạnh vật chất tiềm tàng hoặc những biến đổi của điều kiện, hoàn cảnh vật chất theo hướng có lợi cho con người) thể hiện qua việc ý thức chỉ đạo con người trong hoạt động thực tiễn. Sự chỉ đạo đó xuất hiện ngay từ lúc con người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng và phương pháp thực hiện những mục tiêu đề ra. Trong giai đoạn này, ý thức trang bị cho con người những thông tin cần thiết về đối tượng, về các quy luật khách quan và hướng dẫn con người phân tích, lựa chọn những khả năng vận dụng những những quy luật đó trong hành động. Như vậy, ý thức hướng dẫn hoạt động của con người và thông qua các hoạt động đó mà tác động gián tiếp lên thực tại khách quan.

Sự tác động ngược lại của ý thức đối với vật chất có thể theo hướng tiêu cực, trước hết do sự phản ánh không đầy đủ về thế giới đó dẫn đến những sai lầm, duy ý chí thể hiện qua việc ý thức có thể kìm hãm sức mạnh cải tạo hiện thực thực khách quan của con người, nhất là trong lĩnh vực xã hội (làm suy giảm, hao tổn sức mạnh vật chất tiềm tàng, kìm hãm quá trình phát triển kinh tế-xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống của con người).
                           
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự tác động của ý thức đối với vật chất:
                           
+ Nếu tính khoa học của ý thức càng cao thì tính tích cự của ý thức càng lớn. Trước hết đó là ý thức phải phản ánh đúng hiện thực khách quan; nghĩa là con người muốn phát huy sức mạnh của mình trong cải tạo thế giới thì phải tôn trọng các quy luật khách quan, phải nhận thức đúng, nắm vững, vận dụng đúng và hành động phù hợp với các quy luật khách quan.
                           
+ Sự tác động của ý thức đối với vật chất còn phụ thuộc vào mục đích sử dụng ý thức của con người.
                           
Như vậy, bản thân ý thức không trực tiếp thay đổi được hiện thực mà phải thông qua hoạt động của con người. Sức mạnh của ý thức tùy thuộc vào mức độ thâm nhập vào quần chúng, vào các điều kiện vật chất, vào hoàn cảnh khách quan mà trong đó ý thức được thực hiện. Muốn biến đổi và cải tạo thế giới khách quan, ý thức phải được con người thực hiện trong thực tiễn và chỉ có như vậy, ý thức mới trở thành lực lượng vật chất.
                           
Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó TTXH quyết định YTXH và YTXH có tính độc lập tương đối tác động trở lại TTXH. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như: chủ thể và khách thể, lý luận và thực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan v.v..
                           
Ý nghĩa phương pháp luận:
                           
Mục tiêu, phương thức hoạt động của con người đều phải xuất phát từ những điều kiện, hoàn cảnh thực tế, đặc biệt là của điều kiện vật chất, kinh tế; tuân theo, xuất phát, tôn trọng các quy luật khách quan (vốn có) của sự vật, hiện tượng; cần tìm nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng ở trong những điều kiện vật chất khách quan của chúng; muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng được cải tạo. Chống tư tưởng chủ quan duy ý chí, nôn nóng, thiếu kiên nhẫnmà biểu hiện của nó là tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của nhân tố con người; cho rằng con người có thể làm được tất cả những gì muốn mà không cần chú trọng đến sự tác động của các quy luật khách quan, của các điều kiện vật chất cần thiết.
                           
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức là nhấn mạnh tính độc lập tương đối, tính tích cực và tính năng động của ý thức đối với vật chất bằng cách tăng cường rèn luyện, bồi dưỡng tư tưởng, ý chí phấn đấu, vươn lên, tu dưỡng đạo đức v.v nhằm xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh.
                           
Chống thái độ thụ động, trông chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh khách quan vì như vậy là hạ thấp vai trò tính năng động chủ quan của con người trong hoạt động thực tiễn dễ rơi vào chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật tầm thường; tuyệt đối hóa vật chất; coi thường tư tưởng, tri thức rơi vào thực dụng hưởng thụ v.v.


Câu 3: Trình bày nội dung hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật và ý nghĩa phương pháp luận của chúng.

                           
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
                           
Khái niệm: Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát sự quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới. Cơ sở lý luận của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới; theo đó các sự vật, hiện tượng dù có đa dạng, khác nhau đến thế nào đi chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
                           
Tính chất của các mối liên hệ phổ biến:
                           
Tính khách quan. Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ, tác động của bản thân thế giới vật chất. Có mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng và cái tinh thần. Có cái liên hệ giữa những hiện tượng tinh thần với nhau, như mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của quá trình nhận thức. Các mối liên hệ, tác động đó, suy cho đến cùng, đều là sự phản ánh mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.
                           
Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
                           
Tính đa dạng, phong phú. Có nhiều mối liên hệ. Có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất cũng có mối liên hệ chỉ đóng vai trò phụ thuộc (không bản chất). Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ thứ yếu v.v chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Do vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.
                           
Ý nghĩa phương pháp luận: Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng:
                           
+ trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng các mối liên hệ của chúng.
                           
+ trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.

+ trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.

                           
Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy được mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung.

                           
Nguyên lý về sự phát triển

                           
Khái niệm: Trong phép biện chứng duy vật, phát triển là quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ở những mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng.

                           
Tính chất của sự phát triển:

                           
Tính khách quan. Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng
                           
Tính phổ biến. Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

                           
Tính kế thừa. Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự phủ định có tính kế thừa. Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, vì vậy trong sự vật, hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp của sự vật, hiện tượng cũ, chuyển sang sự vật, hiện tượng mới, gạt bỏ những mặt tiêu đã lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ cản trở sự phát triển.
                           
Tính đa dạng, phong phú. Tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tính đa dạng và phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
                           
Ý nghĩa phương pháp luận: Từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc phát triển trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng, muốn nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát triển của chúng thì phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động, trong sự biến đổi của nó. Nguyên tắc phát triển yêu cầu:

                           
+ Đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát hiện được các xu hướng biến đổi, phát triển của nó để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển. Cần chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn, còn động lực của sự phát triển là đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng đó.
                           
+ Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm ra những hình thức, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.

+ Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm, sớm phát hiện và ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới phát triển; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v bởi nhiều khi cái mới thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp. Trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.

                           
Câu 4: Nội dung và ý nghĩa của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.

                          
Trong các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, V.I.Lênin đã coi quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là “hạt nhân của phép biện chứng”, bởi quy luật đã chỉ rõ nguổn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển của sự vật và là “chìa khóa” giúp con người nắm vững thực chất của các quy luật cơ bản và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
                           
Nội dung:
                           
1. Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến:
                           
- Mâu thuẫn chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Đó là những mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau cùng tồn tại trong một sự vật. Mâu thuẫn là sự thống nhất của hai mặt đối lập.
                           
- Mâu thuẫn có tính khách quan – vốn có trong các sự vật hiện tượng và tính phổ biến – tồn tại trong tất cả các lĩnh vực (tự nhiên, xã hội và tư duy).
                           
- Do mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến nên mâu thuẫn có tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau. Trong mỗi sv, ht có nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm, vai trò tác động khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Ví vậy cần phải có phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.

                           
2.Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
                           
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ, quy định, ràng buộc lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
                           
Chú ý: Trong quy luật mâu thuẫn, khái niệm “thống nhất” và “đồng nhất” thường được dùng cùng một nghĩa. Nhưng cũng có lúc khái niệm “đồng nhất” chỉ sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
                           
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự xung đột, bài trừ và phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập.
                           
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập ko tách rời với sự đấu tranh giữa chúng, bởi vì trong quy định, ràng buột lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh với nhau.
                           
- Phát triển là một sự đấu tranh giữa các mặt đối lập:
                           
+ Quá trình hình thành và phát triển của một mâu thuẫn: lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt; sau đó, phát triển lên thành hai mặt đối lập; khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và có điều kiện thì giữa chúng có sự chuyển hóa – mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và lại một quá trình mới làm cho sự vật ko ngừng vận động và phát triển.

+ Nếu mâu thuẫn ko được giải quyết (các mặt đối lập ko chuyển hóa), thì ko có sự phát triển. Chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới nên các hình thức chuyển hóa cũng rất đa dạng: hai mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau hoặc chuyển hóa lên hình thức cao hơn...
                           
Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt: thống nhất của các mặt đối lập và đấu tranh của các mặt đối lập, trong đó: thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối (làm cho thế giới vật chất phân hóa thành các bộ phận, các sự vật đa dạng, phức tạp, gián đoạn); còn đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối (làm cho sự vận động và phát triển của sự vật là sự tự thân và diễn ra liên tục).
                           
Tóm lại: Mọi sv, ht trong thế giới khách quan đều là thể thống nhất của các mặt đối lập, chính sự dấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hóa giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.

                           
Ý nghĩa phương pháp luận:
                           
Mâu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên muốn nắm bắt được bản chất của sự vật cần phải phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của chúng.
                           
Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có phương pháp phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể. Việc giải quyết mâu thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập và với những điều kiện chính muồi.

                           
Câu 5: Nội dung và ý nghĩa của quy luật phủ định của phủ định.

                           
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, chỉ rõ khuynh hướng của sự vận động, phát triển của sự vật và sự liên hệ giữa cái mới và cái cũ. Để hiểu được bản chất của quy luật, trước hết cần nắm được khái niệm phủ định và phủ định biện chứng.
                           
Phủ định và phủ định biện chứng:
                           
Phủ định:
                           
Trong thế giới vật chất, các sự vật đều có quá trình sinh ra, tồn tại, mất đi và được thay thế bằng sự vật khác. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới là sự phủ định. Như vậy, phủ định là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất
                           
Phủ định biện chứng:
                           
Nếu quan điểm siêu hình coi phủ định là sự xóa bỏ hoàn toàn cái cũ, thì triết học Mác-Lênin coi phủ định là sự phủ định biện chứng – sự phủ định có kế thừa, tạo điều kiện cho sự phát triển.
                           
Quan niệm về sự phủ định biện chứng như trên tất yếu sẽ gắn với sự giải quyết mâu thuẫn và thực hiện bước nhảy. Chính sự ra đời của sự vật mới về chất phải thông qua việc giải quyết mâu thuẫn (đó cũng chính là bước nhảy về chất).
                           
Những đặc điểm của phủ định biện chứng:
                           
Tính khách quan – nguyên nhân của phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật và của quá trình từ những tích lũy về lượng dẫn đến sự nhảy vọt về chất.

Tính kế thừa – cái mới ra đời trên cơ sở của cái cũ đó là sự phủ định có kế thừa (loại bỏ những yếu tố đã lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự phát triển; đồng thời, chọn lọc, giữ lại những yếu tố tích cực và cải biến đi cho phù hợp với cái mới).
                           
Nội dung của quy luật phủ định của phủ định:
                           
Thế giới vật chất vận động và phát triển diễn ra thông qua quá trình phủ định biện chứng vô tận. Sự phát triển của các sự vật diễn ra qua nhiều lần phủ định, tạo ra một khuynh hướng đi từ thấp đến cao có tính chu kỳ. Tính chu kỳ của sự phủ định biện chứng biểu hiện ở chỗ thông qua một số lần phủ định, cái mới xuất hiện dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Thí dụ: hạt lúa (khẳng định), cây lúa (phủ định), bông lúa (phủ định của phủ định).
                           
+ Qua sự phủ định lần 1, sự vật chuyển thành mặt đối lập với chính mình (cây lúa phủ định hạt lúa).
                           
+ Qua sự phủ định lần 2, sự vật mới này lại chuyển thành mặt đối lập với nó và dường như trở lại dạng ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn (bông lúa phủ định cây lúa).

                           
Như vậy, kết quả của sự phủ định của phủ định là cái tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được phát triển từ trước, trong cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần 1. Đó là sự “lọc bỏ” biện chứng những giai đoạn đã qua để dạt đến cái mới về chất cao hơn (quá trình lọc bỏ biện chứng).
                           
Ở thí dụ trên, qua hai lần phủ định, sự vật trải qua một chu kỳ phát triển. Rõ ràng, ở sự vật đơn giản, ít ra cũng phải thông qua hai lần phủ định mới có được sự phát triển; ở các sự vật phức tạp, số lần phủ định có thể nhiều hơn.
                           
Sự phủ định của phủ định là sự kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ mới và cứ như thế tiếp tục mãi mãi, tạo nên hình thái “xoáy trôn ốc” của sự phát triển.
                           
Ý nghĩa phương pháp luận:

                           
Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ rõ sự phát triển là khuynh hướng chung, là tất yếu của các sự vật. Hiện tượng trong thế giới khách quan. Song, quá trình phát triển ko diễn ra theo đường thẳng mà quanh co phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta tránh được cách nhìn phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sv, ht, đặc biệt là các hiện tượng xã hội.
                           
Quy luật phủ định của phủ định cũng khẳng định tính tất thắng của cái mới, vì cái mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật. Mặt dù khi mới ra đời, cái mới có thể còn non yếu, song nó là cái tiến bộ hơn, là giai đoạn phát triển cao hơn về chất so với cái cũ. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần có ý thức phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
                           
Trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ “hư vô chủ nghĩa”, “phủ định sạch trơn”.

                           
Câu 6: Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đảng và nhà nước ta đã áp dụng quy luật này ra sao?


Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:

                           
Lực lượng sản xuất:
                        
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của loài người. LLSX bao gồm tư liệu sản xuất (tư liệu lao động và đối tượng lao động) và người lao động với kinh nghiệm sản xuất và thói quen lao động.
                      
Các yếu tố của LLSX có quan hệ với nhau. Sự phát triển của LLSX là sự phát triển của tư liệu lao động thích ứng với bản thân người lao động, với trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật của họ.
                   
Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của LLSX. Đồng thời, xét đến cùng, đó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới.
                           
Ngày nay, khoa học trở thành LLSX trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được vận dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất phát triển; những tư liệu sản xuất, những tiến bộ của công nghệ và phương pháp sản xuất là kết quả vật chất của nhận thức khoa học. Thời đại ngày nay, tri thức khoa học trở thành một bộ phận cần thiết của kinh nghiệm và tri thức của người sản xuất v.v.. và được phát triển mạnh mẽ. Đó là LLSX to lớn thúc đẩy quá trình tiến bộ xã hội trên thế giới.
                           
Quan hệ sản xuất:
                          
Quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất được gọi là quan hệ sản xuất. Cũng như LLSX, QHSX thuộc lĩnh vực đời sống vật chất xã hội. Tính vật chất của QHSX thể hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
                           
QHSX bao gồm: QH sỡ hữu về tư liệu sản xuất; QH về tổ chức quản lý trong sản xuất; QH phân phối sản phẩm. Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó QH sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bản chất của bất cứ kiểu QHSX nào trước hết do QH chiếm hữu tư liệu sản xuất quyết định.
                         
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX:
                           
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
                           
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan. Quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất, còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
                           
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất, nó luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất Nếu “phù hợp” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại, “không phù hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực.
                           
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
                           
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự thống nhất đến những khác biệt và đối lập xung đột từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này cũng tuân theo quy luật “từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”, quy luật “phủ định của phủ định”, khiến cho quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội vừa diễn ra với tính chất tiệm tiến, tuần tự, lại vừa có tính nhảy vọt với những bước đột biến, kế thừa và vượt qua của nó ở trình độ ngày càng cao hơn.
                           
Sự vận dụng quy luật này ở nước ta:
                           
Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu, nước ta đi lên CNXH. Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ, lực lượng sản xuất bị kiềm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà ngay khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
                           
Thực tế lực lượng sản xuất nước ta còn thấp kém lại phát triển không đồng đều, cho nên cần phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn. Để xây dựng phương thức sản xuất XHCN, Đảng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của CNXH. Từng bước xã hội hóa XHCN, quá trình đó không phải bằng gò ép, mà được thực hiện từng bước thông qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà nước, các hình thức hợp tác,… để dần dần hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, trong đó, kinh tế nhà nước và tập thể đóng vai trò là nền tảng. Chúng ta chỉ bỏ qua những gì của xã hội cũ không còn phù hợp, thực hiện chủ trương chuyển hóa cái cũ thành cái mới theo định hướng XHCN.

Nguồn: Sưu tầm

descriptionTổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I EmptyRe: Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I

more_horiz
Một số tài liệu ôn tập Mac 1 tải về tại đây

descriptionTổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I EmptyRe: Tổng hợp đề cương ôn tập: Chủ nghĩa Mác - Lênin I

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn được quyền trả lời bài viết
replyTrả lời chủ đề này